Thiên Đồng ở cung tật ách


Thiên Đồng thuộc thuỷ, cho nên chủ về bệnh bàng quang, bao gồm các bệnh ở hệ bài tiết, như thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái, bệnh lậu, viêm niệu đạo, bệnh thận.

Do thuỷ làm kim tiết khí, nên lúc Thiên Đồng đồng cung với Đà La thì chủ về bệnh khí quản, ống phế quản (bronchia, phân nhánh của khí quản).

Thiên Đồng chủ về hưởng thụ, nếu Hoá Kỵ, sẽ chủ về tiêu chảy. Nếu Thiên Đồng hội hợp với Thái Âm thì chủ về âm hư, biểu hiện là tiêu chảy thuộc hư chứng, kiết lị; có các sao đào hoa đồng độ thì chủ về mộng tinh, di tinh, hoặc tiểu đêm; thảy đều chủ về thận khí bất túc.

Thiên Đồng đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, nếu Thiên Đồng lạc hãm, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, đây là điềm tượng bàng quang, niệu đạo bị viêm, hoặc bệnh tuyến tiền liệt; gặp Thiên Nguyệt thì thận khí tiên thiên bất túc, dễ bị nước tiểu đục (albuminuria, anbumin niệu bất thường).

Thiên Đồng đồng cung với Thiên Mã, chủ về khí hư, nếu lại gặp sát tinh, đây là điềm tượng khí suy, hư tổn, dễ bị các chứng nhược.

Tổ hợp sao “Thiên Đồng, Thái Âm” chủ về thấp khí, có thể phát triển thành thuỷ thũng, bụng trướng, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ chủ về bệnh do thấp hoả gây ra, dẫn đến tứ chi đau nhức.

Nếu Thái Âm Hoá Kỵ, đây là chứng âm hư hoặc thuỷ tràn làm mộc trôi, dẫn đến viêm gan cổ trướng, phép điều trị là phải củng cố gan thận.

Tính chất cơ bản của “Thiên Đồng, Cự Môn” là “đường, ống, dây” cho nên chủ về bệnh phổi, khí quản, thực quản; cũng chủ về đau thần kinh (vì thần kinh là “đường, ống, dây” vi tế nhất trong cơ thể). Nếu có các sao sát, kỵ, hình, hao tụ tập, có thể phát triển thành bệnh xương tuỷ hoặc bệnh tăng bạch cầu.

Trong các tình hình thông thường, “Thiên Đồng, Cự Môn” gặp sát tinh, hoặc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, đều chủ về xương cốt biến dạng, thoái hoá, hoặc tăng sinh, dẫn đến chèn ép dây thần kinh, làm đau nhức, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ thì càng nặng. Nếu có Thiên Hình, Thiên Nguyệt đồng độ, thì có thể là bệnh tật suốt đời, như bệnh về xương tuỷ bẩm sinh.

Đối với tinh hệ “Thiên Đồng, Thiên Lương” cổ nhân cho rằng chủ về bệnh ở phần dưới (hạ tiêu), tức hệ bài tiết và bệnh đường sinh dục, trường hợp Thiên Đồng Hoá Kỵ thấy ứng nghiệm nhiều. Nếu gặp sát tinh, nhất là gặp Hoả Tinh, Linh Tinh sẽ chủ về đau tức vùng gan hoặc lói tim và khó thở. Nếu gặp các sao hình, sát, kỵ tụ tập, lại có thêm các sao Thiên Nguyệt, Thiên Đức, Thiên Mã thì chủ về tắc nghẽn cơ tim. Đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp cũng chủ về thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái.

Luận về sao Thiên Đồng


Thiên Đồng gặp Thiên Riêu tâm tình y như người đồng bóng ưa giận dỗi, nay thế này, mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng thì hiền thục nhưng khó chiều, dễ hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc Đức cung có sao Thiên Đồng đời đời mãi mãi sống sung túc với điều kiện không đi cùng Cự Môn.

Điểm đặc biệt của Thiên Đồng là không sợ Sát Kị, dễ có thể dựa vào Sát Kị làm khích phát lực. Sát Kị đẩy Thiên Đồng vào quyết liệt phấn đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: ‘Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kị Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hóa Kị thủ Mệnh hóa ra tốt)

“Đồng đóng cung Tuất yên vì
Hãm cung nhưng lại được bề hiển vinh
Nhờ sao Hóa Kị thêm xinh
Ấy là ưng hợp dễ thành giàu sang”

Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hóa Kị cổ thư gọi bằng ‘Càn cung phản bối’. Không phải chỉ gặp Hóa Kị không là đủ. Hóa Kị còn cần Cự Môn, Hóa Lộc, Văn Xương thì mới đến tình trạng bĩ cực thái lai sức dồn ép đến sức cùng bật ngược trở lại.

Song song với cách ‘Càn cung phản bối’ là cách ‘Mã đầu đới tiễn’ (Cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chi cung Ngọ, tiển là Kình Dương. Chỉ những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi.

Phú nói ‘Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương’ nghĩa là ‘Thiên Đồng đóng cung Ngọ gặp Kình Dương uy thế ra tới ngoài biên ải. Đừng nhầm lẫn hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương cả ở cung Tí mà gọi là ‘Mã đầu đới tiễn’. Cung tên chẳng thể treo ở cổ chuột.

Tử Vi Đẩu Số viết: ‘Người tuổi Bính an Mệnh ở cung Tỵ, Hợi gặp Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt’. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc). Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu Tỵ. Cách Điệp Lộc thì giàu có. Nếu thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt còn sang cả nữa.

Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hóa Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tỵ Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng Cơ Cự không đắc địa.
Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn cung Quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan cũng chẳng bằng Lộc ở cung Tài Bạch.

Điệp Lộc còn vào người tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ, nên Tử vi trong tinh điển mới viết: “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”. Đồng Âm Ngọ hãm địa, nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy thì Thiên Đồng cần Điệp Lộc.

Với tuổi Canh, cách Thiên Đồng có một điểm nghi nan trên an bài Tứ Hóa. Tuổi Canh Đồng gặp Hóa Kị hay Hóa Khoa? Là Nhật Vũ Đồng Âm hay Nhật Vũ Âm Đồng? Theo trình tự của Tứ Hóa? Không ai đủ uy quyền mà quyết định. Bên Trung Quốc đã bàn cãi nhiều mà rút cục phe nào làm theo ý phe ấy. Người trọng tài duy nhất chỉ là Trần Đoàn tiên sinh thôi, mà tiên sinh thì chưa sống lại. Tuổi Canh hễ dính dấp đến Thiên Đồng vấn đề muốn nát óc, phải mượn tướng cách mà đoán thêm.

Toàn thư viết rằng: “Nhược tại Hợi địa, Canh sinh nhân hạ cục cách ngộ Dương Đà Linh Kị xung hội, tác cô đan phá tướng mục tật”. Câu trên nghĩa là Nếu Đồng đóng Hợi mà tuổi Canh thì xấu, lại gặp cả Dương Đà Linh Kị nữa, thì cô đơn, phá tướng, có mục tật (cận thị nặng hoặc đui mù). Vịn vào câu trên mới lập luận chắc Thiên Đồng bị Hóa Kị nên mới thành hạ cục, thiết nghĩ không lấy chi làm rõ lắm. vì cũng câu trên lại bảo ‘cánh ngộ’ (lại gặp cả) Hóa Kị. Sao phải dùng chữ ‘cánh ngộ’ nếu như đương nhiên Thiên Đồng đi với Hóa Kị.

Và rõ ràng hơn ở mục sắp xếp các sao thì chính Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư vẫn sắp Hóa Kị đứng bên Thái Âm.

“Canh Nhật Vũ Đồng Âm vi thủ
Tân Cự Dương Khúc Xương chí.”

Riêng tôi thấy Đồng Âm đúng. Bên Trung Quốc, Tử vi thấu phái chủ trương Âm Đồng.

Về cách ‘Càn cung phản bối’ của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hóa Kị, cách này chỉ hiện lên vì hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân, Hóa Kị theo Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tùy theo giờ sinh Tí Ngọ). Tuổi Đinh, Hóa Kị theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hóa Lộc nữa.
Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hóa Quyền

Khi giải thích về: “Càn cung phản bối”, cổ nhân viết câu :”Thiên Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kì” là thế.

Thiên Đồng cần đi với Hóa Lộc, ở trường hợp ‘Càn cung’ nó cần Hóa Kị để làm sức khích động, sức khích động ấy chuyển tình trạng bất lợi sang tình trạng thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả.

Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm báo cho hay rằng cách Càn cung phản bối trước khi nên công phải bị đẩy vào chỗ bĩ đa. Thiên Đồng còn được nhận như bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ cách ‘Càn cung’ vậy. Cách ‘Càn cung phản bối’ cổ nhân cho rằng không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai phải thiên ma bách triết được, đàn bà mà như thế chẳng khác gì cô thôn nữ chất phác dấn thân vào chốn phồn hoa.

Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách Càn vi phản bối. Thiên Đồng tại Thìn thì không. Không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại sao? Tuy nhiên có luận cứ của người đời sau cho rằng Thìn là cung Thiên La, Tuất là cung Địa Võng. Đã Thiên thì hết khích động phản ứng, chỉ có Địa tiếp xúc với cái thực tế trước mặt mới chịu khích động phản ứng mà thôi. Luận cứ này cũng cho rằng Thiên La nên hiểu theo nghĩa Thiên Nhai, Địa Võng nên hiểu theo nghĩa Địa Dốc (chân trời góc biển). Thiên Nhai (chân trời) không tạo khích động lực như Địa dốc. Cái gì thuộc trời như đã an bài rồi, cái gì thuộc đất còn tiếp tục đấu tranh.

Vào số nữ, cổ nhân cho rằng không nên nếu nó đi với Thái Âm hay Thiên Lương.

“Đồng Âm ở Ngọ ở Tí
Đồng ở Tuất hội chiếu Cơ Âm ở Dần
Đồng ở Dậu đối xung với Thái Âm tại Mão
Đồng đóng Mão, Thái Âm tam hợp từ Hợi
Đồng Lương cùng đóng Dần Thân
Đồng ở Tỵ Lương ở Hợi, Đồng ở Hợi Lương ở Tỵ”

Đẩu Số Toàn Thư viết:”Nữ mệnh bị sát xung phá ắt hẳn hình phu khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ mọn”. Ngoài ra cũng sách trên viết câu: “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp nhưng mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người đàn bà nhan sắc diễm lệ:

“Đồng Nguyệt Tí gái hoa dung
Gặp Tang, Riêu, Khốc khóc chồng có phen”

Đồng Âm tại đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không đẹp như Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng thịnh. Đồng Dậu, Nguyệt Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng đẹp và dâm vậy. Luận đoán quan kiện đặt trên căn bản ý chí lực và tình tự. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thái Âm làm cho ý chí lực bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hỏa Linh càng bạc nhược lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu bị Kình Dương Đà La thì càng như sống trong mơ.
Chủ yếu khi luận đoán về Thiên Đồng là ý chí và tình tự. Ý chí với tình tự phải cân bằng khi vào nữ mạng thì cuộc đời mới yên ổn thảnh thơi. Bị Thái Âm làm cho bạc nhược ý chí, bị Thiên Lương làm cho viển vông tình tự đều không hay, nếu như lại chịu xung phá của Kình Đà Linh Hỏa lại càng thêm phiền nữa.

“Thiên Đồng mừng thấy Khoa Lộc đi bên
Ý chí tình tự vừa đúng, cân bằng”

Nếu Thiên Đồng gặp Quyền, Kị, Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng bằng như gặp Linh Hỏa Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật.

Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tất thị hiền” (Người nữ Thiên Đồng thủ mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế đâu. Như cách Cự Đồng vào nữ thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ.

Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả, không có khả năng chống trả với phá phách phiền nhiễu nên Thiên Đồng ý chí phải vững vàng không bạc nhược, không quá khích, tình tự phải chân chất, không viễn vông mơ ước hão. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kị, Kình Đà, Lương Âm, Hỏa Linh.

Các sao trong Tử vi khoa ẩn chứa cái lý của nhân sinh thật phong phú. Thiên Đồng Thái Âm đi vào nam mạng thì sao? Đồng với Thái Âm ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa đa tình. Thiên Đồng Dậu Mão dễ vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi, nam mạng tầm thường cuộc đời nhiều chướng ngại.

Cần nghiên cứu thêm qua những câu phú sau đây nói về Thiên Đồng:
– Thiên Đồng ngộ Kiếp Không bất cát
(Thiên Đồng thủ mệnh gặp Kiếp Không thành xấu)

– Đồng Âm Ngọ, Bính Mậu tuế cư phúc tăng tài hoạch, gia hãm Long Trì tu phòng mục tật
(Đồng Âm đóng Ngọ tuổi Bính Mậu công danh phát đạt, tiền tài phấn chấn, ngại gặp Long Trì tất có tật ở mắt)

– Đồng Âm tại Tí, Nguyệt Lãng Thiên Môn, dung nhan mỹ ái, Hổ Khốc Riêu Tang xâm nhập chung thân đa lệ phối duyên
(Đồng Âm thủ Mệnh tại Tí, như mặt trăng sáng nơi cửa trời nhan sắc xinh đẹp, nếu bị Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Riêu, Tang Môn xâm nhập thì dang dở, khổ tình hay góa bụa)

– Phúc điệu phùng Việt điệu ư Tí cung định thị hải hà dục tú
(Đồng Âm đóng tại Tí thủ mệnh gặp Thiên Việt có vẻ đẹp sang trọng uy nghi)

– Phúc điệu nhi ngộ Cự Môn thê nhi lãng đãng
(Thiên Đồng Cự Môn Đồng cư thủ Mệnh lận đận cuộc đời, nhưng Thiên Đồng Cự Môn đóng phối cung thì hoặc muộn chồng, muộn vợ con hoặc gãy đổ duyên tình)

– Đồng Lương viên, ngộ Khôi Quyền tăng phùng Linh Kị, giao lại Song Lộc doanh thương dị đạt phú cường (Đồng Lương đóng Mệnh gặp Thiên Khôi Hóa Quyền lại có Linh Kị và Song Lộc chiếu làm thương mại dễ nên giàu)

Sao Thiên Đồng


THIÊN ĐỒNG
Thủy
V: Dần, Thân
Đ: Tí, Mão, Tỵ, Hợi
H: Ngọ, Dậu, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
Quý tinh. hiền vui, ôn hòa, nhu nhược

1. Ý nghĩa tính tình:
a. Nếu Thiên Đồng đắc địa:
– ôn hòa, đức hạnh
– nhân hậu, từ thiện, hay làm phúc, không hại ai nên ít bị người hại lại thường được quý nhân giúp đỡ
– thông minh
– hay thay đổi
Đây là ý nghĩa nổi bật nhất: hay thay đổi ý kiến, chí hướng, công việc, chỗ ở, từ đó tính tình không nhất mực, nông nổi, bất quyết. Thành thử, có hai hậu quả quan trọng về tâm tính là:
– không quả quyết, bất định, có khi đi đến nhu nhược, hay nghe hay thay đổi lập trường, dễ bị ảnh hưởng bởi dư luận và ngoại cảnh do sự thiếu định kiến.
– không bền chí, chóng chán, hay bỏ dở nửa chừng. Điều này không có lợi về học hành, làm ăn.
Nếu Đồng ở Di thì nhất định khuynh hướng thay đổi càng dễ dàng, sâu sắc hơn, đặc biệt là khi gặp Thiên Mã, Nhị Hao hay Hóa Kỵ là những phụ tinh chủ về sự thay đổi.
Riêng đối với nữ mệnh, Thiên Đồng có nghĩa: đảm đang,  đức độ hay thay đổi chí hướng
b. Nếu Thiên Đồng hãm địa:
– kém thông minh
– nông nổi hơn, thiếu kiên nhẫn, không lập trường
– phóng đãng, thích chơi bời ăn uống, hay buông xuôi, đến đâu hay đến đó
– nói khoác, không cẩn ngôn
– phái nữ thì đa dâm, tự do, độc lập, phóng túng

2. Ý nghĩa tài lộc, phúc thọ:
– Nếu đắc địa, Thiên Đồng chỉ sự giàu sang.
– Nếu hãm địa thì phải lo lắng về tiền bạc, tài sản khi có, khi tán, có lúc phải túng thiếu vất vả.
– Ở cung Ngọ, Thiên Đồng chỉ năng khiếu kinh doanh.
– Về mặt phúc thọ, vì Đồng là phúc tinh nên dù hãm địa cũng thọ.

3. Ý nghĩa của Thiên đồng và một số sao khác:
a. Những bộ sao tốt:
– Đồng Kình ở Ngọ: có uy vũ lớn, được giao phó trấn ngự ở biên cương
– Đồng Lương ở Dần Thân: làm nên danh giá. Ngoài ra, còn có khiếu về y khoa, dược khoa, sư phạm
– Cơ Nguyệt Đồng Lương cách: phúc thọ, làm công chức
– Đồng Âm đồng cung ở Tý: phúc hậu và thọ, đẹp đẽ
b. Những bộ sao xấu:
– Đồng Không Kiếp Hỏa Linh: u mê, nghèo khỏ, sống qua ngày, ăn mày
– Đồng Nguyệt ở Tý, Hổ, Khốc, Riêu:  đàn bà đẹp nhưng bạc phận, khóc chồng
– Đồng Kỵ ở Tuất: rất xấu, trừ phi tuổi Đinh thì phú quý.

4. Ý nghĩa của thiên đồng ở các cung:
CUNG MỆNH
– Tính hay thay đổi, không quyết định được việc gì, đàn bà thì tốt về sau vinh hiển.
– Thiên Đồng tại Tuất : tuổi Đinh, nhâm : tốt.
– Thiên Đồng, Thái Am lại ngọ ngộ Dương Nhẫn : anh hùng danh vang bốn cõi.
– Đồng, Tham, Vũ, Xương, Khúc thủ Mệnh ư Sửu, Mùi :chết đuối.
– Đồng ngộ Hỏa, Linh, Không, Kiếp : u mê mà nghèo khổ.
– Đồng, Khoa, Quyền, Tấu : có uy quyền.
– Đồng Lương có Nguyệt Đức chiếu : tăng ni.
– Thiên Đồng thủ Mệnh tại Tị : lông bông.
– Đồng, Cự, Khoa, Lộc tại Thìn, Tuất : tuổi Đinh, Tân : đại phú quý, các tuổi khác xấu cả .
– Đồng thủ thân Mệnh cư ngọ có Thái dương nhập chiếu : võ nghiệp làm nên.
– Đồng tọa Mệnh tại Tý, Cự tại Dần, Lương tại Thân và có tam Hóa : đại tài.
– Đồng Lương dần, thân : tuổi giáp canh, thân làm nên danh giá.
– Đồng, Lương, Cơ, Nguyệt : quý cách (coi mục nói về sao Thiên Cơ).
– Đồng, Tham : tay trắng làm nên.
– Đồng, Lương, Cư, Tú chiếu thân Mệnh : đại tài.
– Đồng ngộ Việt cư Tị : người dáng điệu đẹp.
– Đồng cư ngọ ngộ Kình anh hùng một phương.
– Đồng nguyệt giải Kình ngộ Mệnh : nhất thế uy danh.
CUNG THÊ
– Đồng, Cơ : vợ chồng lấy nhau khi ít tuổi.
– Đồng, Quang, Mã, Thái dương, Nguyệt đức : vợ đẹp hiền và giàu có.
– Đồng, Lương, Cơ, Nguyệt vợ chồng có họ hàng xa với nhau, hay dính dáng bà con với nhau.
– Đồng Cự cư Mộ cung : muộn vợ, muộn chồng
– Đồng, Am, Quang, Đức, Mã : vợ giàu.
– Đồng, Lương : hai vợ cùng một giòng họ.
Gia đạo tốt đẹp nếu Đồng Lương đồng cung hay Đồng Nguyệt đồng cung ở Tý:
– sớm lập gia đình
– vợ chồng xứng đôi và giàu có
– thường có họ hàng với nhau
– riêng với Nguyệt thì vợ giàu, nể vợ, nhờ vợ
Gia đạo kém tốt nếu Đồng ở Mão hay đồng cung với Nguyệt ở Ngọ:
– chậm hôn nhân mới sum họp lâu dài
– vợ đẹp và hiền thục
Gia đạo xấu nếu Đồng ở Dậu (bất hòa, xa cách), ở Tỵ (dễ gặp, dễ xa), ở Thìn Tuất (hay cãi vã, ly cách) và nhất là Cự đồng cung (bỏ nhau, xa cách rất lâu) hay Riêu đồng cung (ngoại tình)
CUNG TƯ
– Đồng, Vượng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Tử, Phủ : con phú quý.
– Đồng, Lương dần thân : con hiền; ở Tị, Hợi thì du đãng.
– Thiên Đồng, Nguyệt Đức ; con sớm có vợ chồng.
– Đồng, Cự cư Mộ cung : muộn con.
– Rất tốt nếu Đồng ở Mão (đông con), đồng cung với Lương, Nguyệt ở Tý (đông con, con quý hiển)
– Kém tốt nếu ở Dậu (ít con, thay đổi chỗ ở luôn mới có nhiều con), ở Tỵ Hợi (hai con, nếu có nhiều con thì mất một số, con cái ly tán, chơi bời).
– Xấu nếu Đồng ở Thìn Tuất (hiếm con) và nhất là đồng cung với Cự (ít con, con khó nuôi, bất hòa, ly tán, có thê có con riêng).
CUNG TÀI
– Đồng, Cơ, Vũ hay Đồng, Tham : tay không làm giàu.
– Chỉ tốt nếu Đồng ở Mão hay gặp Nguyệt ở Tý (tay trắng làm giàu, càng về già càng nhiều của) hoặc đồng cung với Lương (giàu có vì buôn bán, có tiền làm phúc)
– Nếu Đồng ở Dậu thì tiền bạc khi có khi thiếu; ở Ngọ thì chật vật lúc kiếm tiền, về già mới của của; ở Tỵ Hợi thì dễ kiếm tiền nhưng hao tán và tha phương làm ăn;ở Thìn Tuất thì túng thiếu.
– đồng cung với Cự thì thất thường, túng thiếu, thường bị kiện tụng vì tiền bạc, phải ly hương mới có tài sản.
CUNG ĐIỀN
– Thiên Đồng : làm nên ; song trước khó, sau dễ.
CUNG GIẢI
– Đồng, Lương, Lộc : tốt.
– Đồng, Lương hãm địa ; phải lo các bệnh hàn nhiệt.
CUNG THIÊN DI
– Đồng, Tướng, Am, Tả, Hữu : gặp quý nhân tín nhiệm trọng dụng.
CUNG QUAN
– Đồng, Mã tại Ngọ : võ quan to ở biên cương.
– Đồng, Tướng, Mã, Lộc; Đồng, Lương dần thân : Đồng, Lương, Cơ, Nguyệt : phú quý.
– Đồng, Cự, Hình : nhờ ơn người trên giúp làm nên.
Tốt nhất là Đồng ở Mão, Tý và đồng cung với Lương:
– văn võ kiêm toàn và hiển đạt
– có tài tham mưu, can gián thượng cấp
– riêng với Thiên Xương thì đặc sắc về sư phạm, y khoa và chính trị
Kém tốt nếu Đồng ở Tỵ Hợi (phú quý bất thường, hay thay đổi công việc, công việc có tính cách lưu động) hoặc ở Dậu (muộn công danh, chức nhỏ, hay thay đổi).
– Xấu nếu gặp Cự đồng cung (công danh vất vả, hay bị dèm pha, kiện cáo, cạnh tranh).
CUNG NÔ
– Đồng, Lương hay Đồng cư dần thân : tốt, ở Tỵ, Hợi thì tôi tớ bất lương.
CUNG PHÚC
– Đồng, Cơ, Khôi, Việt, Tướng: nhà có thần đồng.
– Đồng, Tướng : võ nghiệp đại phát
CUNG PHỤ MẪU
– Đồng Dần, Thân : cha mẹ giàu sang.
HẠN
– Đồng, Kình, Linh : cầu hôn thành. Người đang bệnh hoặc hay buồn mà thấy Đồng ở Hạn là bệnh tương tư.
– Nếu sáng sủa thì hưng thịnh về tài, danh, may mắn.
– Nếu xấu xa thì vận hạn xấu (hao của, bị kiện tụng, bị đổi chỗ …)